Hệ thống các quy phạm pháp luật còn hiệu lực từ kết quả pháp điển đề mục Bảo vệ công trình quốc phòng và khu vực quân sự
Triển khai thực hiện công tác pháp điển, Bộ Quốc phòng đã chủ trì thực hiện pháp điển đề mục Bảo vệ công trình quốc phòng và khu vực quân sự. Đến nay, đề mục này đã được thẩm định, ký xác thực, đóng dấu theo quy định và đang được Bộ Tư pháp hoàn thiện hồ sơ trình Chính phủ thông qua trong thời gian tới theo chủ đề “Quốc phòng”.
Đề mục Bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự có cấu trúc được xây dựng theo cấu trúc của Pháp lệnh bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự ban hành ngày 19/5/1994 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 19/5/1994. Theo đó, đề mục này bao gồm 05 chương, được pháp điển bởi các quy phạm pháp luật từ 05 văn bản (01 Pháp lệnh, 02 Nghị định và 02 Thông tư, Thông tư liên tịch), cụ thể như sau: Pháp lệnh Bảo vệ công trình quốc phòng và khu vực quân sự ngày 19/5/1994; Nghị định số 04/1995/NĐ-CP ngày 16/01/1995 của Chính phủ ban hành Quy chế bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; Nghị định số 148/2006/NĐ-CP ngày 04/12/2006 của Chính phủ về quy hoạch, xây dựng, quản lý và bảo vệ vành đai an toàn các kho đạn dược, vật liệu nổ, nhà máy sản xuất đạn dược, vật liệu nổ do Bộ Quốc phòng quản lý; Thông tư số 25/2008/TT-BQP ngày 06/3/2008 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 148/2006/NĐ-CP ngày 04/12/2006 của Chính phủ về quy hoạch, xây dựng, quản lý và bảo vệ vành đai an toàn các kho đạn dược, vật liệu nổ, nhà máy sản xuất đạn dược, vật liêu nổ do Bộ Quốc phòng quản lý; Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BQP-BTNMT ngày 28/01/2008 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn Nghị định số 148/2006/NĐ-CP ngày 04/12/2006 của Chính phủ về quy hoạch, xây dựng, quản lý và bảo vệ vành đai an toàn các kho đạn dược, vật liệu nổ, nhà máy sản xuất đạn dược, vật liêu nổ do Bộ Quốc phòng quản lý.
Đề mục Bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự được pháp điển bởi các quy phạm pháp luật đang còn hiệu lực quy định các nội dung cơ bản như: Công trình quốc phòng và khu quân sự là tài sản của Nhà nước, được giao cho lực lượng vũ trang nhân dân và chính quyền các cấp tổ chức việc xây dựng, quản lý, sử dụng, bảo vệ để phục vụ sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Vành đai an toàn và việc quy hoạch, xây dựng, quản lý, bảo vệ Vành đai an toàn các kho đạn dược, vật liệu nổ, nhà máy sản xuất đạn dược, vật liệu nổ. Công trình quốc phòng là các công trình được xây dựng, các địa hình và địa vật tự nhiên được cải tạo và xác định nhằm phục vụ mục đích phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc. Khu quân sự là khu vực có giới hạn được xác định chuyên dùng cho mục đích quân sự. Đề mục Bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự bao gồm 5 chương với 20 điều, nội dung chi tiết cụ thể như sau:
Chương I gồm 05 điều quy định về nguyên tắc quy hoạch, xây dựng, quản lý, bảo vệ vành đai an toàn kho thực hiện theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 148/2006/NĐ-CP, cụ thể như sau: Mọi tổ chức, cá nhân khi quy hoạch, xây dựng công trình, khai thác, sử dụng vùng đất, khoảng không thuộc Vành đai an toàn kho trong phạm vi cho phép quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 7 Nghị định số 148/2006/NĐ-CP phải có ý kiến của thủ trưởng đơn vị cấp trên trực tiếp quản lý kho đạn dược và chấp hành các quy định về xây dựng, quản lý, bảo vệ vành đai an toàn kho. Ngoài phạm vi cho phép quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 7 Nghị định số 148/2006/NĐ-CP phải có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. Các cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều có trách nhiệm bảo vệ và chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự. Xây dựng, quản lý, bảo vệ Vành đai an toàn kho là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân. Mọi tổ chức, cá nhân khi quy hoạch, xây dựng công trình liên quan đến phạm vi Vành đai an toàn kho quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 7 Nghị định này phải có ý kiến của Bộ Quốc phòng và chấp hành các quy định về xây dựng, quản lý, bảo vệ Vành đai an toàn kho. Ngoài ra, chương I bao gồm các điều về: Xác định vành đai an toàn và cột mốc đánh dấu giới hạn vành đai an toàn kho đạn dược; Trình tư, thủ tục trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính (nơi chưa có bản đồ địa chính) khu vực vành đai an toàn kho đạn dược, cắm mốc giới vành đai an toàn kho đạn dược; Công trình quốc phòng và khu quân sự phải được quy hoạch và sử dụng một cách hợp lý, đúng mục đích và có hiệu quả; Các tổ chức, cá nhân khi xây dựng công trình kinh tế, dân sinh có ảnh hưởng tới công trình quốc phòng và khu quân sự, thì phải có ý kiến của cơ quan quản lý công trình quốc phòng, khu quân sự và được phép của cấp có thẩm quyền theo quy định của Chính phủ; Mọi hoạt động bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự phải tuân theo quy định của pháp luật. Việc bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự phải gắn liền với việc bảo vệ tài nguyên khoáng sản, di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh và phải tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. Mọi hành vi xâm hại đến công trình quốc phòng và khu quân sự phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Chương II gồm 04 điều bao gồm các quy định về bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự. Công trình quốc phòng và khu quân sự được cấp có thẩm quyền xác định địa giới. Tuỳ theo tính chất của công trình quốc phòng và khu quân sự mà cấp có thẩm quyền quy định có khu vực cấm, khu vực bảo vệ, vành đai an toàn. Tất cả các kho đạn dược phải xác định Vành đai an toàn kho. Vành đai an toàn kho phải bảo đảm ngăn chặn được các yếu tố xâm hại, gây mất an toàn cho kho đạn dược và bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn nếu kho đạn dược xảy ra sự cố cháy, nổ. Vành đai an toàn kho được xác định trên thực địa bằng hàng rào, cột mốc, biển báo và có bản đồ địa chính, trong đó xác định rõ vị trí, diện tích chiếm đất của kho đạn dược và Vành đai an toàn kho. Các kho đạn dược, ngoài hồ sơ quản lý công trình quốc phòng và khu quân sự phải có hồ sơ quản lý Vành đai an toàn kho; việc lập hồ sơ quản lý thực hiện theo quy định của Bộ Quốc phòng; Thu hồi; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các trường hợp thu hồi đất, di dời nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác trong vành đai an toàn kho đạn dược; Bán kính an toàn của các kho đạn dược: Bán kính an toàn của các kho đạn dược phụ thuộc vào đương lượng nổ của từng kho, tính chất của nền đất và công trình, các chướng ngại vật ngăn cách giữa kho đạn dược với người và các công trình, quy định cụ thể như sau: Đối với kho cấp Bộ Quốc phòng và kho cấp quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, vùng hải quân và tương đương: từ 1.200 mét đến 1.500 mét. Đối với kho cấp sư đoàn, kho cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương: từ 800 mét đến 1.000 mét. Đối với các kho cấp lữ đoàn, trung đoàn, huyện, thị, nhà máy sản xuất đạn dược, vật liệu nổ và tương đương do Bộ Quốc phòng quy định. Trường hợp xung quanh sát hàng rào khu vực các nhà kho thuộc kho đạn dược có đồi núi che chắn, nếu lấy đỉnh núi thấp nhất kéo một đường thẳng tới chân tường của nhà kho xa nhất tạo với mặt bằng nền nhà kho một góc lớn hơn 450 thì các khoảng cách quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được phép giảm 50%. Việc bảo vệ Vành đai an toàn kho: Trong phạm vi Vành đai an toàn kho, cấm những hoạt động sau: Người không có trách nhiệm vào Vành đai an toàn kho; Xây dựng nhà ở, công trình kinh tế, dân sinh; Sử dụng lửa, vật liệu nổ, thiết bị, các vật liệu dễ gây cháy, gây nổ, vật thể bay mang lửa; Canh tác nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp trong phạm vi 50 mét tính từ giới hạn trong của Vành đai an toàn kho trở ra xung quanh; Thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản; Săn bắn, nổ mìn; Neo đậu các phương tiện vận chuyển; Tham quan du lịch, các hoạt động tập thể (trừ các hoạt động phòng, chống cháy, nổ, cứu hộ, cứu nạn). Trong phạm vi bán kính 50 mét tính từ giới hạn trong trở ra xung quanh đến giới hạn ngoài của Vành đai an toàn kho, được phép: Xây dựng các công trình phục vụ các hoạt động trực tiếp của kho; Canh tác nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều này; Xây dựng các công trình thủy nông quy mô vừa và nhỏ, các công trình phục vụ phòng, chống cháy, nổ, cứu hộ, cứu nạn; Xây dựng công trình hạ tầng giao thông quy mô vừa và nhỏ để phục vụ hoạt động trực tiếp của kho và phục vụ phòng, chống cháy, nổ, cứu hộ, cứu nạn. Trong phạm vi bán kính 500 mét tính từ giới hạn trong trở ra xung quanh đến giới hạn ngoài của Vành đai an toàn kho, được xây dựng đường điện cao thế dưới 110 KV. Trường hợp đặc biệt cần sử dụng vùng đất, vùng nước, khoảng không vào các mục đích khác ngoài quy định của khoản 2, khoản 3 Điều này, phải được phép của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài các quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều này, việc cư trú, sản xuất, kinh doanh, ra vào, đi lại, quay phim, chụp ảnh và các hoạt động khác trong Vành đai an toàn kho phải tuân theo pháp luật về bảo vệ các công trình quốc phòng và khu quân sự. Nghiêm cấm việc cấp giấy phép, tổ chức xây dựng nhà ở, các công trình kinh tế dân sinh vi phạm các quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều này. Khi có sự cố cháy, nổ hoặc nguy cơ xảy ra cháy, nổ kho đạn dược, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trên địa bàn phải phối hợp với người chỉ huy kho đạn dược tổ chức ngăn chặn, xử lý kịp thời. Nghiêm cấm mọi cá nhân không có trách nhiệm vào Vành đai an toàn kho trong thời gian có nguy cơ dẫn đến cháy, nổ hoặc đang xảy ra sự cố cháy, nổ, hoặc đang khắc phục sự cố cháy, nổ đối với kho đạn dược. Các tổ chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến Vành đai an toàn kho có nghĩa vụ và trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh Nghị định này. Khi phát hiện các biểu hiện, hành vi vi phạm quy định về xây dựng, quản lý, bảo vệ Vành đai an toàn kho phải báo ngay cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan chức năng có thẩm quyền để xử lý kịp thời. Mọi hành vi xâm hại đến Vành đai an toàn kho phải được xử lý theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào tính chất, mục đích sử dụng, công trình quốc phòng và khu quân sự được phân loại và có quy chế bảo vệ chặt chẽ đối với từng loại. Việc bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự phải bảo đảm bí mật, an toàn, cường độ và tuổi thọ cho từng công trình; giữ gìn công trình theo yêu cầu thiết kế và luận chứng kinh tế - kỹ thuật; quản lý chặt chẽ các thiết bị, vật tư chuyên dùng của công trình quốc phòng và khu quân sự. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức bảo vệ hoặc phối hợp bảo vệ các công trình quốc phòng và khu quân sự trong địa phương mình theo quy định của Chính phủ. Các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân trực tiếp bảo vệ các công trình quốc phòng và khu quân sự do mình quản lý, sử dụng. Uỷ ban nhân dân các cấp và các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân phải có kế hoạch phối hợp bảo vệ thường xuyên các công trình quốc phòng và khu quân sự, không để hư hỏng, xuống cấp hoặc sử dụng sai mục đích. Nghiêm cấm mọi hành vi lấn chiếm, huỷ hoại, phá hoại công trình quốc phòng và khu quân sự; xây dựng, khai thác, đặt thiết bị và những hành vi khác làm ảnh hưởng đến cấu trúc, tác dụng, an toàn, bí mật của công trình quốc phòng và khu quân sự. Việc cư trú, sản xuất, kinh doanh, ra vào, đi lại, quay phim, chụp ảnh và mọi hoạt động khác trong khu vực cấm, khu vực bảo vệ và vành đai an toàn của công trình quốc phòng và khu quân sự phải tuân theo Quy chế của Chính phủ về bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự.
Chương III gồm 04 điều quy định về quản lý nhà nước về bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự, cụ thể bao gồm trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Quốc phòng và các cơ quan liên quan như sau: Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự, có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với việc xây dựng, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; Chỉ đạo, xét duyệt quy hoạch chung, bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; Hướng dẫn việc trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do để bảo vệ các công trình quốc phòng và khu quân sự và vì lợi ích quốc gia; Ban hành các văn bản pháp quy về quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; Thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự. Bộ Quốc phòng được Chính phủ giao trực tiếp quản lý Nhà nước về bảo vệ và sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự, có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Xây dựng các dự án pháp luật về quản lý, bảo vệ, sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự; ban hành các quy định về quản lý, bảo vệ, sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự theo thẩm quyền; Tổ chức tuyên truyền, giáo dục cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về bảo vệ, sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự; Tổ chức thực hiện việc quản lý, bảo vệ, sử dụng và kiểm tra, thanh tra việc quản lý, bảo vệ, sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự; Xử lý các vi phạm về quản lý, bảo vệ, sử dụng công trình quốc phòng và khu quân sự theo thẩm quyền; Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan xây dựng đề án quy hoạch hệ thống kho đạn dược toàn quốc và xác định Vành đai an toàn cho từng loại kho đạn dược, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Căn cứ nội dung đề án quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạo lập dự án đầu tư xây dựng và cải tạo các kho đạn dược, tổ chức thẩm định, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định hiện hành; phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, chính quyền địa phương, các cơ quan liên quan trong việc quản lý, sử dụng đất thuộc Vành đai an toàn kho theo quy định của pháp luật về đất đai và giải toả, di dời nhà ở, các công trình nằm trong Vành đai an toàn kho; Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính (phần chi ngân sách quốc phòng thường xuyên) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (phần chi đầu tư xây dựng cơ bản tập trung) trong công tác lập và thực hiện dự toán ngân sách nhà nước bảo đảm cho xây dựng, quản lý và bảo vệ Vành đai an toàn kho, trình cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; Chỉ đạo các đơn vị quản lý kho đạn dược phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xác định Vành đai an toàn kho; Chỉ đạo các đơn vị quản lý kho đạn dược phối hợp với các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng nơi có các công trình kinh tế dân sinh, nhà ở hiện đang tồn tại không phù hợp với khoản 1, khoản 2 Điều 7 Nghị định này, để giải quyết theo quy định của pháp luật. Bộ Nội vụ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, theo chức năng của mình, có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Gắn kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực mình phụ trách với việc xây dựng, quản lý bảo vệ các công trình quốc phòng và khu quân sự có liên quan; phối hợp với Bộ Quốc phòng trong việc quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; Tuyên truyền, giáo dục cán bộ, nhân viên nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; Xử lý các vi phạm về bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự theo thẩm quyền. Ngoài ra, Chương III còn bao gồm các nội dung quy định về trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch thuộc phạm vi quản lý của Bộ liên quan đến Vành đai an toàn kho; Bộ Nội vụ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, theo chức năng của mình, có những nhiệm vụ gắn kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực mình phụ trách với việc xây dựng, quản lý bảo vệ các công trình quốc phòng và khu quân sự có liên quan; phối hợp với Bộ Quốc phòng trong việc quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự. Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Quốc phòng trong công tác lập và thực hiện dự toán ngân sách nhà nước phần chi ngân sách quốc phòng thường xuyên bảo đảm cho xây dựng, quản lý và bảo vệ Vành đai an toàn kho, trình cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; Ủy ban nhân dân các cấp trong việc quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự trong địa phương mình theo quy định của Chính phủ; gắn kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với việc xây dựng, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự trong địa phương; cùng với các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân đóng quân trên địa bàn thống nhất kế hoạch bảo vệ và phối hợp thực hiện.
Chương IV gồm 04 điều quy định các nội dung cơ bản về khen thưởng và xử lý vi phạm: Tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự thì được khen thưởng theo quy định chung của Nhà nước. Người tham gia quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự mà bị hy sinh, bị thương, bị tổn hại về sức khoẻ hoặc bị thiệt hại về tài sản, thì được giải quyết theo chính sách, chế độ của Nhà nước. Tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định về bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm Vành đai an toàn kho được thực hiện như sau: Đơn vị quản lý kho đạn dược chủ trì, phối hợp với chính quyền địa phương và cơ quan chức năng liên quan xây dựng kế hoạch, tổ chức kiểm tra việc thực hiện quy định về xây dựng, quản lý, bảo vệ Vành đai an toàn kho. Khi phát hiện những hành vi xâm hại hoặc nguy cơ xâm hại đến kho đạn dược và vi phạm quy định về xây dựng, quản lý, bảo vệ Vành đai an toàn kho, đơn vị quản lý kho đạn dược chủ trì, phối hợp với chính quyền địa phương, cơ quan liên quan trên địa bàn tổ chức ngăn chặn và có biện pháp phù hợp để đình chỉ kịp thời các hành vi xâm phạm đến an toàn kho, Vành đai an toàn kho. Hàng năm Bộ Quốc phòng tổ chức thanh tra, kiểm tra và báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc thực hiện các quy định về xây dựng, quản lý, bảo vệ Vành đai an toàn kho. Các tổ chức, cá nhân bị xử lý vi phạm Vành đai an toàn kho có quyền khiếu nại đối với những quyết định xử lý của người có thẩm quyền. Công dân có quyền tố cáo các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm Vành đai an toàn kho. Khiếu nại, tố cáo và thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Người có trách nhiệm quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự mà thiếu trách nhiệm hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm tài nguyên khoáng sản, di tích lịch sử, văn hoá hoặc quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự mà gây thiệt hại cho Nhà nước hoặc tổ chức cá nhân khác, thì ngoài việc bị xử lý theo quy định tại Điều 16 và Điều 17 của Pháp lệnh này, còn phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Chương V bao gồm 02 điều quy định về điều khoản cuối cùng, những quy định trước đây trái với Pháp lệnh bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự đều bãi bỏ.
Như vậy, thông qua việc pháp điển đề mục Bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự đã xác định được toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về Công trình quốc phòng và khu quân sự; Vành đai an toàn đang còn hiệu lực được thống kê, tập hợp, sắp xếp giúp các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân dễ dàng tìm kiếm, tra cứu cũng như bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật và góp phần nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật. Qua đó có thể thấy hệ thống pháp luật về Bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự đã và đang từng bước được hoàn thiện và ổn định./.
Trần Thanh Loan